CĂN CỨ
Tống Lê Chân là một địa danh thuộc địa bàn 2 xã Minh Đức và Minh Tâm,
đều thuộc huyện Bình Long, tỉnh Bình Phước. Nơi đây từng được biết đến như một căn cứ quân sự của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, nổi tiếng với sự kiện tiểu đoàn 92 Biệt động quân Việt Nam Cộng hòa cầm cự 510 ngày trong sự phong tỏa của quân Cộng sản từ ngày 10 tháng 5 năm 1972 và rút hầu như nguyên vẹn lực lượng khỏi căn cứ này vào ngày 11 tháng 4 năm 1974. Sự kiện này được phía Việt Nam Cộng hòa xem như một chiến tích nổi bật. Tuy nhiên, phía Cộng sản gần như hoàn toàn không có thông tin gì về sự kiện này.
Nguồn gốc tên gọi
Đây là vùng đất gần biên giới Việt Nam - Campuchia, vì vậy có rất nhiều người địa phương gốc Khmer. Họ gọi vùng này là Tonlé Tchombe. Tonlé tiếng Miên có nghĩa là nơi có nước. Nơi đây chính là nơi giao nguồn của 2 nhánh sông nhỏ thượng nguồn của sông Sài Gòn, vì vậy có tên gọi như trên.
Theo Trần Đỗ Cẩm, thì một thiếu tá Quân lực Việt Nam Cộng hòa Ðặng Hưng Long, là người đã phiên âm chữ Tonlé Tchombe thành tiếng Việt là Tống Lê Chân[1].
Theo những bô lão trong vùng thì tên gọi này đã có từ năm 1956, khi Tổng thống Ngô Đình Diệm thực hiện chính sách dân tộc chủ nghĩa, đã cho thay đổi và Việt hóa nhiều địa danh trên lãnh thổ Việt Nam Cộng hòa, như Bù Đốp đổi thành Bố Đức, B'lao đổi thành Bảo Lộc... và Tonlé Tchombe đã trở thành Tống Lê Chân. Tuy nhiên, thông tin này chưa được kiểm chứng bởi bất kỳ tư liệu nào.
đều thuộc huyện Bình Long, tỉnh Bình Phước. Nơi đây từng được biết đến như một căn cứ quân sự của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, nổi tiếng với sự kiện tiểu đoàn 92 Biệt động quân Việt Nam Cộng hòa cầm cự 510 ngày trong sự phong tỏa của quân Cộng sản từ ngày 10 tháng 5 năm 1972 và rút hầu như nguyên vẹn lực lượng khỏi căn cứ này vào ngày 11 tháng 4 năm 1974. Sự kiện này được phía Việt Nam Cộng hòa xem như một chiến tích nổi bật. Tuy nhiên, phía Cộng sản gần như hoàn toàn không có thông tin gì về sự kiện này.
Nguồn gốc tên gọi
Đây là vùng đất gần biên giới Việt Nam - Campuchia, vì vậy có rất nhiều người địa phương gốc Khmer. Họ gọi vùng này là Tonlé Tchombe. Tonlé tiếng Miên có nghĩa là nơi có nước. Nơi đây chính là nơi giao nguồn của 2 nhánh sông nhỏ thượng nguồn của sông Sài Gòn, vì vậy có tên gọi như trên.
Theo Trần Đỗ Cẩm, thì một thiếu tá Quân lực Việt Nam Cộng hòa Ðặng Hưng Long, là người đã phiên âm chữ Tonlé Tchombe thành tiếng Việt là Tống Lê Chân[1].
Theo những bô lão trong vùng thì tên gọi này đã có từ năm 1956, khi Tổng thống Ngô Đình Diệm thực hiện chính sách dân tộc chủ nghĩa, đã cho thay đổi và Việt hóa nhiều địa danh trên lãnh thổ Việt Nam Cộng hòa, như Bù Đốp đổi thành Bố Đức, B'lao đổi thành Bảo Lộc... và Tonlé Tchombe đã trở thành Tống Lê Chân. Tuy nhiên, thông tin này chưa được kiểm chứng bởi bất kỳ tư liệu nào.
Tiền đồn quân sự trong chiến tranh
Nguyên ủy, từ tháng 2 năm 1955, Thủ tướng Quốc gia Việt Nam đã cho đặt một tiền đồn quân sự tại đây nhằm phòng ngừa các nguy cơ chống chính phủ từ lực lượng vũ trang của giáo phái Cao Đài vốn đang đóng tại Tây Ninh. Vị trí này kiểm soát giao điểm của nguồn nước, đồng thời có thể kiểm soát một tuyến giao thông về Bình Long, một cửa ngõ vào thành phố Sài Gòn.
Cũng từ những vị trí tương tự, quân chính phủ đã tấn công tiêu diệt quân đội Cao Đài trong thời gian diễn ra chiến dịch Nguyễn Huệ. Thắng lợi của chiến dịch này đã đặt dấu kết thúc cho các lực lượng vũ trang thân Pháp, củng cố thế đứng chính trị của Ngô Đình Diệm. Bốn tháng sau đó, ông thực hiện việc phế truất Quốc trưởng Bảo Đại và trở thành Tổng thống, tuyên bố thành lập Việt Nam Cộng hòa.
Sau năm 1956, tiền đồn này hầu như không được sử dụng nữa. Từ năm 1961, bộ phận CIA tại Sài Gòn đã thực hiện chương trình CIDG (viết tắt từ Civilian Irregular Defense Group), hay còn gọi là chương trình Dân sự Chiến đấu, hay Xít-gi để xây dựng những lực lượng chiến đấu đặc biệt nằm ngoài quân đội chính phủ Nam Việt Nam.
Đây là một chương trình bí mật, nhằm tuyển mộ và huấn luyện những chiến binh người dân tộc thiểu số địa phương, vừa có tác dụng phòng vệ tại địa phương, phòng ngừa sự thâm nhập của quân Cộng sản từ biên giới, đồng thời có thể hoạt động biệt kích trong những vùng bị đối phương kiểm soát. Trên thực tế, đây là một lực lượng quân sự bất hợp pháp với chính quyền Nam Việt Nam, do các sĩ quan Mỹ thuộc Toán 5 Lực lượng Ðặc biệt Hoa Kỳ (5th Special Forces Group) làm cố vấn chỉ huy trực tiếp.
Cũng từ những vị trí tương tự, quân chính phủ đã tấn công tiêu diệt quân đội Cao Đài trong thời gian diễn ra chiến dịch Nguyễn Huệ. Thắng lợi của chiến dịch này đã đặt dấu kết thúc cho các lực lượng vũ trang thân Pháp, củng cố thế đứng chính trị của Ngô Đình Diệm. Bốn tháng sau đó, ông thực hiện việc phế truất Quốc trưởng Bảo Đại và trở thành Tổng thống, tuyên bố thành lập Việt Nam Cộng hòa.
Sau năm 1956, tiền đồn này hầu như không được sử dụng nữa. Từ năm 1961, bộ phận CIA tại Sài Gòn đã thực hiện chương trình CIDG (viết tắt từ Civilian Irregular Defense Group), hay còn gọi là chương trình Dân sự Chiến đấu, hay Xít-gi để xây dựng những lực lượng chiến đấu đặc biệt nằm ngoài quân đội chính phủ Nam Việt Nam.
Đây là một chương trình bí mật, nhằm tuyển mộ và huấn luyện những chiến binh người dân tộc thiểu số địa phương, vừa có tác dụng phòng vệ tại địa phương, phòng ngừa sự thâm nhập của quân Cộng sản từ biên giới, đồng thời có thể hoạt động biệt kích trong những vùng bị đối phương kiểm soát. Trên thực tế, đây là một lực lượng quân sự bất hợp pháp với chính quyền Nam Việt Nam, do các sĩ quan Mỹ thuộc Toán 5 Lực lượng Ðặc biệt Hoa Kỳ (5th Special Forces Group) làm cố vấn chỉ huy trực tiếp.
Tuy nhiên, những đội quân này cũng có những hoạt động độc lập hoặc phối hợp với quân đội Việt Nam Cộng hòa khá hiệu quả, gây nhiều khó khăn cho phía Cộng sản. Năm 1967, các cố vấn Hoa Kỳ đã xây dựng một trại huấn luyện đồng thời là căn cứ phòng thủ tại Tống Lê Chân. Chỉ huy trưởng đầu tiên là Thiếu tá Ðặng Hưng Long. Năm 1970, thực hiện kế hoạch "Việt Nam hóa chiến tranh", Hoa Kỳ đã bàn giao lại cho quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Cũng trong năm đó, Lực lượng Dân sự Chiến đấu được đổi tên thành Biệt động quân Biên phòng.
Căn cứ Tống Lê Chân sau khi bàn giao nằm trong địa bàn thuộc quân khu III. Đây là một vị trí quân sự khá quan trọng, nằm trong vùng ranh giới của hai tỉnh Tây Ninh và Bình Long, cách An Lộc 15 km về hướng Tây Nam và mũi nhọn của khu Mỏ Vẹt 13 km về hướng Ðông Nam.
Vùng Mỏ Vẹt, Lưỡi Câu thuộc Campuchia, là những bàn đạp xuất phát của Quân Giải phóng từ hướng Campuchia vào Tây Ninh. Dưới chân căn cứ là con đường 246, trục giao liên Nam - Bắc giữa căn cứ Trung ương Cục miền Nam với vùng kiểm soát Tam giác sắt của quân Việt cộng. Căn cứ còn nằm trong hệ thống căn cứ liên hoàn canh phòng hướng biên giới Việt Nam - Campuchia và từng là một trong những bàn đạp hành quân của quân Việt Nam Cộng hòa trong chiến dịch vượt biên giới năm 1972.
Căn cứ Tống Lê Chân sau khi bàn giao nằm trong địa bàn thuộc quân khu III. Đây là một vị trí quân sự khá quan trọng, nằm trong vùng ranh giới của hai tỉnh Tây Ninh và Bình Long, cách An Lộc 15 km về hướng Tây Nam và mũi nhọn của khu Mỏ Vẹt 13 km về hướng Ðông Nam.
Vùng Mỏ Vẹt, Lưỡi Câu thuộc Campuchia, là những bàn đạp xuất phát của Quân Giải phóng từ hướng Campuchia vào Tây Ninh. Dưới chân căn cứ là con đường 246, trục giao liên Nam - Bắc giữa căn cứ Trung ương Cục miền Nam với vùng kiểm soát Tam giác sắt của quân Việt cộng. Căn cứ còn nằm trong hệ thống căn cứ liên hoàn canh phòng hướng biên giới Việt Nam - Campuchia và từng là một trong những bàn đạp hành quân của quân Việt Nam Cộng hòa trong chiến dịch vượt biên giới năm 1972.
510 ngày trong vòng phong tỏa
Trong chiến cuộc năm 1972, quân Cộng sản mở chiến dịch Nguyễn Huệ tấn công vào Lộc Ninh, Chơn Thành và An Lộc. Sau khi chiếm được Lộc Ninh ngày 8 tháng 4 năm 1972, Sư đoàn 5 Quân việt cộngtiến theo Quốc lộ 13 xuống phía Nam, uy hiếp mặt Bắc thị xã An Lộc. Sư đoàn 7 vc xuất phát từ vùng biên giới Campuchia, đi vòng qua An Lộc, tiến xuống phong tỏa Quốc lộ 13 ở phía Nam An Lộc, tức là con đường bộ duy nhất tiếp tế cho thị xã này, đồng thời uy hiếp các căn cứ biên phòng, phối hợp với Đoàn C30B để cầm chân Sư đoàn 25 Bộ binh VNCH tại Tây Ninh, ngăn cản không cho tiếp viện An Lộc. Sư đoàn 9 là lực lượng chủ lực vc tấn công An Lộc, cũng xuất phát từ vùng biên giới Campuchia, tiến xuống và tấn công An Lộc từ phía Tây.
Các căn cứ tiền đồn biên phòng như Thiện Ngôn, Katum, Bổ Túc, Bù Gia Mập lần lượt bị bức rút trước sức uy hiếp của đối phương. Riêng căn cứ Tống Lê Chân còn lại bơ vơ giữa vùng kiểm soát của 4 sư đoàn quân Cộng sản sau khi Lộc Ninh bị chiếm giữ và thị xã An Lộc cũng bị bao vây dày đặc.
Về căn bản chiến dịch, phía Cộng sản chủ trương phong tỏa, uy hiếp và bức rút các căn cứ biên phòng, vì vậy họ đã không dùng quân chủ lực để tấn công tiêu diệt. Tuy nhiên, vị trí của Tống Lê Chân không rút lui mà vẫn duy trì trạng thái phòng ngự với lực lượng tiểu đoàn 92 Biệt động quân Biên phòng, do Trung tá tá Lê Văn Ngôn(khoá 21 Đàlat) làm tiểu đoàn trưởng, với quân số khoảng 300 người(thăng 2 cáp trong thjời gian phòng thủ).
Các căn cứ tiền đồn biên phòng như Thiện Ngôn, Katum, Bổ Túc, Bù Gia Mập lần lượt bị bức rút trước sức uy hiếp của đối phương. Riêng căn cứ Tống Lê Chân còn lại bơ vơ giữa vùng kiểm soát của 4 sư đoàn quân Cộng sản sau khi Lộc Ninh bị chiếm giữ và thị xã An Lộc cũng bị bao vây dày đặc.
Về căn bản chiến dịch, phía Cộng sản chủ trương phong tỏa, uy hiếp và bức rút các căn cứ biên phòng, vì vậy họ đã không dùng quân chủ lực để tấn công tiêu diệt. Tuy nhiên, vị trí của Tống Lê Chân không rút lui mà vẫn duy trì trạng thái phòng ngự với lực lượng tiểu đoàn 92 Biệt động quân Biên phòng, do Trung tá tá Lê Văn Ngôn(khoá 21 Đàlat) làm tiểu đoàn trưởng, với quân số khoảng 300 người(thăng 2 cáp trong thjời gian phòng thủ).
Trại giam Tống Lê Chân
Sau năm 1975, trại Tống Lê Chân được làm trại giam giữ tù binh cải tạo. Tháng 11 năm 2007, trại Tống Lê Chân được cộng sàn Việt Nam trao tặng Huân chương Bảo vệ Tổ quốc hạng Ba.
TỔNG HỢP
TỔNG HỢP
No comments:
Post a Comment