Friday, April 8, 2011

Chupao 10 TĐ/BĐQ và khúc xương khó nuốt


MƯỜI TIỂU ĐOÀN BIỆT ĐỘNG QUÂN VÀ KHÚC XƯƠNG KHÓ NUỐT CHUPAO
You have posted in this topic.Tác giả: SAO BẮC ĐẨU - Trình bày: Ngô Nhật Tùng - Trích đặc san KBC do Tú Quỳnh xuất bản


Chúng tôi ngồi bên bờ đường 14, con đường đã chôn xác hàng ngàn chiến sĩ VN, hàng ngàn lính BV, hai chai rượu Martell của những thân hữu, những nhà phát hành sách báo VN bị "bẻ cổ" rồi được chuyền từ tay này sang tay khác. Hai chai rượu này tôi tự ý trích ra trong số một thùng 12 chai được gởi đến Kontum tặng những chiến sĩ tử thủ. Tôi nghĩ đã làm đúng ý những người bạn ở Sài Gòn: để một phút ấm lòng đến cho những người ngoài chiến tuyến dù họ đang ở Chupao hay ở Kontum.

40 người lính ngồi thành một vòng tròn đường kính khoảng 15 thước. Chai rượu được rót vào cái nắp đậy, mổi người một nắp. Câu chuyện cởi mở, thoải mái, mọi người đều có cảm giác làm xong nhiệm vụ xứng đáng thụ hưởng những phút nghỉ ngơi.

Ngoài đường, những chuyến xe đò, xe hàng ì ạch vượt khoảng đường xấu, xấu vì bom đạn tàn phá, xấu vì trời đang mùa mưa. Những hành khách ngồi trên xe vẩy chúng tôi tíu tít, miệng la lớn: "Cám ơn, cám ơn lắm", có người ném vào giữa "tiệc rượu" của chúng tôi một gói thuốc. Những người đầu tiên tái xử dụng đường 14 đều vui ra mặt. Những chiếc thiết giáp cháy đen, những quân xa lật chỏng bánh rải rác hai bên đường đã là những chứng tích hùng biện nói lên với cái giá trị mà các đơn vị anh hùng đã phải trả để mở lại cho họ đường trở về tìm lại mái nhà ấm, tìm thửa vườn, khoảng sân mà hai tháng trước họ đã phải bỏ tất cả lại để chỉ chạy lấy thân.




Anh Thiếu úy Tâm, đại đội trưởng Đại đội 2, Tiểu đoàn 62 BĐQ khẽ nói:
-Có triệu bạc thưởng nào lớn hơn những phút giây này! Nhìn đồng bào trở về Kontum mình thấy kết quả những việc làm của mình, những hy sinh của mình như được cụ thể hóa.
Đại tá Đương, chỉ huy trưởng BĐQ Quân khu II gật gù:
-Chu Pao quả là một khúc xương khó nuốt, hai tháng trước, đọc Diều Hâu, các anh nêu lên tính chất quan trọng của Chu Pao mình cũng chỉ biết vậy. Bây giờ mới thấy thấm thía đúng, không giữ Chu Pao, không giữ Kontum được.

Sương mù và những trận đánh lựu đạn

Thiếu tá Đồng Đăng Khoa, Tiểu đoàn trưởng 71 BĐQ lắc đầu, rùng mình khi nhắc lại hình ảnh hãi hùng của những trận cận chiến:
-Chúng tôi thanh toán mục tiêu bằng lựu đạn. Đánh từng hầm, từng hầm một. Không có cách nào khác hơn để làm im tiếng súng của những đám xạ thủ đã bị xiềng chân vào hầm.
-Sao các anh không chụp hình? Tổng Cục CTCT đang treo giải thưởng cho những người chụp hình lính BV bị xiềng chân.
Anh Jean, một HSQ lai Pháp 75 phần trăm lắc đầu:
-Nội việc chặt chân cái xác chết ra để kéo súng xuống núi cũng đã khó khăn lắm rồi. Địch quân phối trí hầm của chúng thành hình chữ V, hầm nầy yểm trợ cho hầm kia. Tử thần hẹn gặp chúng tôi ở khắp bốn phía và bất cứ lúc nào. Thì giờ đâu chúng tôi nghĩ đến chuyện chụp hình nữa?
Tôi nhìn lên những đỉnh Chu Pao, Chu Thới ngán ngẫm:
-Leo được lên đó và leo dưới hỏa lực của địch quân thật không phải là chuyện đi dạo.
Đại úy Lê Thanh Phong, Tiểu đoàn trưởng 62 BĐQ gật đầu xác nhận:
-Cam go lắm anh ạ. Nhưng cũng may lúc này có sương mù buổi sáng. Sương dày đặc đến mức cách nhau khoảng 10 thước là không nhìn thấy gì nữa rồi. Anh có để ý tất cả xe đang chạy ở ngoài đường đều mở đén không? Cũng nhờ sương mù mà chúng tôi bò lên đánh được những vị trí súng của địch.

Tôi nghĩ đến những buổi thuyết trình mà tôi được nghe tại vài bộ chỉ huy lớn: Yếu tố thường được người ta nhắc nhở đến là B52, là bom CBU là tia sáng Laser, v v... nhưng rồi rốt cuộc, bên những chiến cụ tối tân đó, lòng can đảm và tài thiện chiến của người lính đánh bộ vẫn là yếu tố quyết định.

Tôi hỏi:
-Giá trị tác chiến của quân lính BV như thế nào?
Đại úy Phan Thái Bình, người anh hùng của những trận Lệ Khánh, Chu Pao lắc đầu:
-Đại khái cũng thường thôi. Điều này tưởng cũng dể hiểu. Lính BV đã đánh trận nào chưa mà thiện chiến. Trong khi đó thì lính mình đánh năm này sang năm khác. Tôi nghĩ nếu không bị cầm chân trong những vị trí cố định, bất lợi, quân đội mình đã giải quyết xong trận Tổng tấn công này từ lâu rồi.

Đại úy Bình là một trong những sĩ quan thăng cấp nhanh nhất trong quân đội. Từ Thiếu úy, anh lên Đại úy chỉ trong vòng 24 tháng, và tất cả những cấp bậc này anh đều thăng tại mặt trận.


Tưởng nhớ cố Đại Tá Nguyễn Kim Tây


Anh tiếp:
-Núi non trùng điệp như thế kia, nếu lính BV chỉ khá thôi chứ đừng nói giỏi, thì những đơn vị BĐQ chúng tôi cũng không lên được rồi.
Tôi đã chứng kiến những lần đánh Chu Pao trước, và đã có lần tôi tường thuật lại những trận đánh đó. Hàng trung đoàn Bộ Binh có chiến xa yểm trợ, từ phi tuần này đến phi tuần khác tiếp tục đánh và cả B-52 nữa, nhưng cuối cùng mọi người đành nhìn nhận rằng Chu Pao quả là khúc xương khó nuốt.
Đại tá Đương chỉ cho tôi thấy một vết mẻ trên phiến đá lớn gần đấy rồi nói:
Bom B-52 mà chỉ làm "trầy" xơ xịa hòn đá như vậy thì mong gì dùng bom trục chúng nó ra khỏi hầm được. Chúng tôi đánh bằng lựu đạn, đánh từng hầm một.
Anh Thiếu úy Sơn, tiền sát viên pháo binh cho thêm một chi tiết:
-Hầm hố ở đây địch quân đều đào theo kiểu hầm Triều Tiên. Bom hay đại bác có đánh trúng ngay trên hầm mới có kết quả. Đánh bên cạnh thì kể như huề.

Một người sĩ quan anh hùng trong quân đội BV

Trong lúc anh Sơn đang loay hoay vẽ bằng dao găm kiểu hẩm Triều Tiên trên mặt đất cho tôi xem, thì anh Thiếu úy Tâm vẻ mặt trầm tư bảo tôi:
-Khi nãy Đại úy Bình nói rằng giá trị chiến đấu của lính BV rất tầm thường. Tôi hoàn toàn đồng ý. Có thể nói họ nhát nữa. Nếu không bị khống chế chặt chẽ, bị xiềng chân, v.v... chắc họ đã bỏ chạy từ lâu. Tuy nhiên theo tôi thấy thì đó chỉ là nhận xét chung. Trong cái quân đội tầm thường đó, cũng vẫn có người khá.

Đại úy Bình cười chúm chím (khá có duyên):
-Chắc mầy muốn nói trường hợp của anh Thiếu úy Phạm Văn Đôi?
Tâm gật đầu. Anh tiếp tục nói với tôi, người độc nhất không biết những chuyện mà quanh "bàn tiệc" này ai cũng biết rất rõ.
- Anh Đôi là một Thiếu úy trẻ, tôt nghiệp trường Võ Bị Lục Quân Hà Nội năm 1968. Anh ta chỉ huy một trung đội trấn giữ ngọn đồi trọc mà anh thấy cao chót vót kia cà (vừa nói, Tâm vừa chỉ cho tôi thấy ngọn đồi). Sương mù ôm kín ngọn núi nên lúc chúng tôi bò tới tận nơi, đánh rồi, lựu đạn nổ rồi anh mới bắt đầu tìm cách kháng cự. Dĩ nhiên là đối với những người lính BĐQ quen tốc chiến để giải quyết chớp nhoáng chiến trường thì cái phút hạ phong đầu tiên của đơn vị BV đã đặt họ vào tình trạng không gỡ được nữa. Trên mỗi miệng hầm đều có một người lính Biệt Động. Tất cả lựu đạn nổ gần như cùng một lượt. Sau loạt tiếng nổ này sức chiến đấu của Trung Đội BV chỉ còn bằng một phần mười so với giá trị tác chiến của chính đơn vị họ, một phút trước. Những tiếng rên siết, cả những tiếng van lơn nữa nổi lên phắp nơi, nhưng theo lệnh tôi, Đại đội 2/62 BĐQ vẫn núp kín vào những ghềnh đá.

Kinh nghiệm chiến trường làm chúng tôi hiểu rằng dù có đánh tàn nhẫn cách nào, đánh bất ngờ cách nào, chúng tôi cũng không thể tiêu diệt 100 phần trăm quân số địch ngay trong đòn đầu. Thế nào cũng có những chú bận đau bụng, bận xuống suối múc nước, v.v... và nhờ vậy mà sống sót. Người sống sót trong trận đánh lựu đạn này lại chính là Thiếu úy Đôi, Trung đội trưởng. Trong lúc sơ ý chúng tôi không thấy hầm của anh, đào hơi xa những hầm khác.



Chúng tôi núp khoảng chừng một phút thì nghe tiếng đại liên "quạt" ào ào trên đầu. Nhưng như anh thấy quanh anh đó, trong những ghềnh đá này, bom đạn không giết người. Điều đó là sự thật đối với những người lính Bắc Việt cũng như đối với chúng tôi. Ngồi an toàn dưới một tảng đá lớn, chúng tôi lấy tất cả thì giờ cần thiết để quan sát hầm đại liên của địch và những lối di chuyển có thể đưa chúng tôi đến miệng hầm. Một phút sau, chúng tôi đã đứng trên đầu anh Đôi (dĩ nhiên khi đó chúng tôi không biết người xạ thủ đại liên phía dưới là một sĩ quan Bắc Việt). Chúng tôi chờ một quãng ngừng của tràn đạn để lên tiếng gọi anh đầu hàng. Binh sĩ đã hành động như thường lệ, cho địch quân một giới hạn thời gian và bảo cho họ biết trước là sau khoảng thời gian đó nếu họ không ném vũ khí ra, đưa cao tay lên đầu và bước ra khỏi hầm, lựu đạn sẽ ném xuống.

Chúng tôi chờ đợi. Một người lính BĐQ đếm những giây chót trong cuộc sống của anh sĩ quan BV.

-...Bẩy, tám, chín...

Miệng đếm, tay người lính Mũ nâu đã cầm sẵn một quả lựu đạn rút chốt, nhưng anh chưa kịp xử dụng thì một tiếng nổ rung chuyển đã vang lên. Căn hầm dưới chân chúng tôi bốc khói mù mịt. Trên miệng hầm một anh lính BĐQ khác bị miểng văng trúng bị thương nhẹ.

Tôi nhìn kỹ vào hầm quan sát. Nhất định sau một tiếng nổ như vậy, bên trong hầm kín không thể còn một sinh vật nào nữa cả. Tuy vậy, khi tiến vào hầm chúng tôi vẫn dè dặt. Trước mắt tôi, anh quân nhân BV với quân hàm Thiếu úy trên cổ áo nằm sóng xoài, ngực vở ra vì bị phá bởi sức nổ của quả lựu đạn mà chính anh đã xử dụng, anh tự tử để không bị bắt.

Nghe xong câu chuyện khá dài, tôi nhắp một nắp Martell, kết luận:
-Ít nhất, đó cũng là một người có liêm sỉ.
Đại úy Phong:
-Một thi sĩ nữa. Trong túi anh, ngoài những tài liệu quân sự, chúng tôi còn tìm thấy một hình ảnh chụp chung với một người đàn bà (có lẽ vợ anh). Mặt sau có hai câu thơ:

Ngày nào trái đất còn quay
Trái tim còn đập, tình này còn yêu.

Sau khi Đại úy Phong đọc xong hai câu thơ nói lên tâm sự của một người lính xa vợ, chợt tôi nghe không khí quanh "bàn tiệc" như nặng hơn. Chai rượu cạn cũng được chuyền tay với nhịp độ mau hơn. Mọi người đều như muốn quên thật nhanh việc mà chính mắt họ đã chứng kiến 48 giờ trước.



Tôi hiểu những người lính mũ nâu, mũ đỏ, mũ xanh v.v... là những người lính có giá trị chiến đấu cao nhất của quân đội VN. Họ có thể lăn vào thanh toán khẩu đại liên đang khạc đạn ngăn cản bước tiến của họ. Họ có thể, họ đã và hiện nay họ vẫn còn đang chịu đựng hàng trăm ngày dài chiến đấu gian khổ, thiếu thốn, nguy hiểm, cam go mà không hề hé răng than phiền nửa lời. Nhưng họ cần một điều: đối tượng trước mặt họ phải là một khuôn mặt độc ác gian manh, ghê tởm v.v... chứ đừng là một người lính cũng biết yêu, biết nhớ vợ như họ.

Nhìn 40 khuôn mặt đen xạm vì mưa nắng cao nguyên bỗng nhiên tôi không còn thấy cái góc anh hùng gan lì của họ nữa. Tôi thử hình dung những người đàn bà sau lưng họ. Cái việc vận dụng trí tưởng tượng này không đòi hỏi tôi phải cố gắng một chút nào cả tôi biết họ quá nhiều, tôi biết những trại gia binh bẩn thỉu không ngân khoản bảo trì, tôi biết những đám tang lạnh lẽo, những vành khăn sô đơn côi. Qua tất cả những cái biết đó, đang thắm thiết hiểu phút khó chịu của những thiên thần mũ nâu trước cái chết của một người lính địch.

Một câu hỏi của người lính già tên tuổi: Thống tướng Mc Arthur. Nguyên nhân câu nói như thế nào, tôi không lập lại thật đúng. Tôi chỉ xin viết đại ý của vị danh tướng này:
-Trọn đời sống trong quân ngũ vậy mà vẫn có một việc tôi không tài nào hiểu được. đó là sức chịu đựng của người lính bộ binh. Anh ta di chuyển, mang theo trên lưng tất cả tài sản: Nhà bếp, nhà thương, phòng ngủ, tâm tư v.v... Anh tiến lên mặt trận hay từ mặt trận trở về thì mỗi ngày 24 giờ, giờ nào cũng có thể là giờ hẹn gặp của anh với tử thần. Nếu anh ta chưa gãy gập xuống, quả là một phép lạ.

Người lính bộ binh mà Thống tướng Mc Arthur mô tả là người lính bộ binh Hoa Kỳ. Trên lưng người lính Bộ Binh VN (Nhảy Dù, TQLC, BĐQ, Biệt Kích, Bô Binh, Địa Phương Quân v.v...) còn biết bao nhiêu gánh nặng nữa: Sự bất tài của những cấp chỉ huy, thăng thưởng thuyên chuyển qua ngã mua quan bán tước, sự trống vắng của đơn vị vì nạn lính kiểng, lính ma, sự thiếu thốn một hậu phương thật tình thương yêu, cảm thông với tiền tuyến.

Với tất cả những sức nặng đổ trên lưng người lính Việt Nam vẫn đang làm được cái công việc mà hai tháng trước đây không ai tin rằng họ làm nổi: đập vụn thành từng manh mún nhỏ đạo quân viễn chinh BV được trang bị mạnh hơn họ, được chiến đấu trong những điều kiện lợi hơn họ.

Trước sự chịu đựng anh hùng đó, người ta chỉ còn một việc để làm: Ngả nón bái phục.

Sao Bắc Đẫu

2 comments: